Đây là bài diễn
văn của cụ Phan Châu Trinh năm 1925 tại Sài Gòn, sau khi Pháp thấy cụ gần
chết vì lao phổi nên đưa cụ từ Pháp về Sài Gòn (để chết). Đến lúc gần chết cụ
vẫn đau đáu về tương lai của Việt Nam.
|
Thưa các anh em,
chị em, đồng bào!
Từ khi tôi biết
cái học mới đến bây giờ, thì trong trí tôi bực tức, ngẫm nghĩ lấy làm lạ quá.
Lạ vì trong xứ Á Đông này có bốn nước đồng văn, mà đều sùng bái cái chính thể
quân chủ, đều sùng thượng Nho Giáo. Vậy làm sao mà từ hồi cái văn minh bên Châu
Âu tràn sang cõi Á Đông đến nay thì chỉ có người Nhật Bản bỏ ngay cái học cũ mà
theo lối mới, thì sự giàu mạnh trông thấy liền trước mắt, chừng trong bốn năm
mươi năm mà đã sánh vai với liệt cường? Còn nước Xiêm [Thái Lan] ở gần bên ta,
thì nó chẳng có đạo Nho gì hết, nó chỉ có đạo Phật mà thôi, mà nay nó cũng đứng
vào hàng Vạn quốc bình đẳng. Tại làm sao mà được như thế?
Chẳng có sự gì
thế, hễ người Anh lại nó cũng cho vào, người Pháp lại nó cũng cho vào, người
Mỹ, người Đức lại nó cũng đãi tử tế, để nó theo học cái hay của mấy nước đó.
Chỉ chừa ra có ba nước là nước Tàu, nước Cao Ly [Triều Tiên] và nước ta, dân
thì nghèo, nước thì yếu, cái phần người dốt nát thì chiếm đến 80%. Còn gọi là
thượng lưu, chẳng qua là trong bọn "bát cổ" đã chiếm hai phần ba
trong nước; thật chẳng biết biết cái Nho Học là gì, mà cũng nhắm mắt lại chê
càn cái văn minh mới là mọi rợ! (đây tôi nói Cao Ly và Tàu, còn Việt Nam ta để
tôi nói lại sau).
Nhưng mà nay cái
phong trào trong thế giới nó mãnh liệt lắm: ai thuận theo nó mà đi thì thuận
buồm xuôi gió, ai không thuận theo nó thì cũng bị xô đẩy mà đổ lướt đi như cỏ
rác.
Vậy cho nên bọn
thiếu niên Cao Ly họ đã tỉnh dậy, mới có cái hồi vận động năm 1919, làm cho
Nhật Bản phải bỏ lòng hổ lang đi, mà trả cái tự do lại cho họ; nước Tàu thì có
sự vận động bọn thanh niên năm 1925, làm cho liệt cường thể nào cũng phải lấy
sự công bình mà đối xử lại với họ.
Khốn nạn thay
cho cái dân tộc nước Việt Nam ta, đến bây giờ trong dân tộc mà gọi là các ông
Nho học tức là các ông có học được ít chữ Tàu, mà nhất là các ông đã đậu được
Cử Nhân Tiến Sĩ; các ông đó tôi dám chắc rằng không hiểu Nho Giáo là gì hết;
vậy mà mở miệng ra là cứ đem Nho Giáo ra để làm chỗ dựa,để bài bát cái văn minh
kim thời, tức là cái văn minh mà các ông tuyệt nhiên không hiểu được một chút
nào cả.
Còn nói về các
anh thiếu niên tân học, trừ ra có đôi anh tự cái sức thông minh của mình mà tìm
kiếm ra thấy được nhiều ít, kỳ dư thì chỉ theo cách học cũ; mong kiếm lấy cái
chức phẩm gì, hay là coi cho rộng để viết lách khoe khoang mà thôi. Không có
ông nào chịu đem cái sự học của Âu Tây để so sánh lại với cái cũ của ta, xem
điều gì hay, điều gì dở cho người ta xét đoán mà tìm lấy đường tiến tới về sau
này.
*
* *
Tôi xin lỗi các
anh chị em đồng bào, cái đề mà tôi lựa diễn thuyết bữa nay, Quân Trị Chủ Nghĩa
(tức nhân trị chủ nghĩa), Dân Trị Chủ Nghĩa (tức là pháp trị chủ nghĩa), cái đề
mục đó thật là lớn lao quá, không phải là sức tôi có giải quyết ra cho minh
bạch được. Muốn giải quyết ra cho minh bạch thì phải tìm về Âu Á lịch sử chính
học và chính trị triết học, mới có thể nói ra cho tinh tường được.
Các anh em chị
em có lạ gì tôi: cái học về đường lịch sử chính trị Tàu thì tôi cũng hiểu được
ít nhiều, còn về đường Tây học thì thật là kém lắm. Nhưng mà tôi cũng ráng hết
sức, đem cái việc mà tôi đã biết xin nói ra cho anh em nghe, còn cái việc gì
cao xa không thấu, thì để phần ông nào hiểu hơn tôi diễn giải ra cho anh chị em
rõ.
NÓI VỀ
CÁI LỊCH SỬ QUÂN TRỊ CHỦ NGHĨA
Cuộc quân chủ
đến ngày nay thì cũng như một cái hoa tàn lá héo phất phơ trong đời bây giờ.
Xem như trong
một cõi Á Đông này, không kể những ông vua mất nước rồi mà những nước mạnh họ
chỉ để làm con nộm, con bồ nhìn để đè dân bổn xứ, thì chỉ có Vua Xiêm và Vua
Nhật đủ quyền phép đáng xưng là Ông Vua mà thôi. Âu Châu bây giờ dân chủ đã đến
14 nước mà quân chủ chỉ xót lại có 12 nước. Còn bên Mỹ Châu thì chẳng có một nước
nào quân chủ. Vậy thì ta có thể nói rằng: trong trái đất này chỉ có 8.000 triệu
người, mà số dân có vua thì không được một phần trong số mười.
Vẻ vang thay cái
oai quyền dân chủ! Gớm ghê thay cái dục vọng của quân chủ! Đang hồi Thượng cổ,
Trung cổ, dân chúng còn hèn yếu ngu dốt, cho nên bất câu loài dân nào cũng phải
có cái quyền quân chủ để bao bọc cho dân, dạy dỗ cho dân, che chở cho dân; đang
cái thời đó thì quân chủ thật là một vị thuốc hay cho loài người hồi đó.
Khốn nạn thay
cái tính loài người; thấy người ta tôn trọng mình bao nhiêu thì mình lại thêm
kiêu hãnh bấy nhiêu; thấy người ta kính nể mình bao nhiêu thì mình lại càng tự
thần tự thánh bấy nhiêu; thấy người ta chiều chuộng mình thì mình lại muốn ngồi
lên đầu người ta! Không những thế lại muốn truyền cho con cháu từ đời này qua
đời khác, như cái gia tài riêng của mình. Đất muốn cho ai thì cho như là bán
ruộng, còn dân thì làm như bọn mọi vậy.
Ta thử xem từ
xưa đến nay, bất cứ vua nào, hễ cướp được nước lên làm vua thì tìm đủ cách để
truyền cho con cháu cho lâu dài, mà rốt cuộc lại họ nào lâu lắm là ba trăm năm,
còn mấy họ vắn thì năm mười năm thôi. Cái cuộc đó thì ở Á ở Âu gì cũng như thế
cả. Nhưng mà ở Âu Châu thì đến thế kỷ mười bảy, mười tám, các bậc hiền triết ra
xướng lên cái chủ nghĩa dân quyền. Mấy ông vua nào hung dữ chuyên chế, phản đối
lại cái phong trào dân chủ thì bị nhào cả; còn anh nào điều hòa với dân thì còn
ngoắc ngoải đến bây giờ.
Về cái vấn đề
này thì tôi cốt chỉ cho rõ cái quân trị chủ nghĩa bên Á Đông này thật không
phải là gốc tự Nho Giáo. Tôi xin chỉ vẽ rõ ràng cái tư tưởng sai lầm từ xưa đến
nay cho anh chị em đều hiểu.
Cứ theo các ông
triết học Âu Châu bàn về lịch sử nhân loại: kể từ loài người mới sinh, rồi làm
sao mà có tù trưởng, làm sao rồi thành vua thành chúa; cứ nói như thế thì mất
hết thì giờ, mà các Ngài nghe cũng vô ích. Vậy nên tôi cứ sử Tàu mà cắt nghĩa
để các Ngài dễ hiểu hơn.
Tàu thì tôi cứ
nói từ vua Hoàng Đế là một ông vua mạnh nhất ở nước Tàu. Từ ở núi Côn Lôn (phía
Tây nước Tàu) tràn xuống phía Bắc Tàu, rồi đánh với dân bản xứ Tàu là dân Hữu
Miêu ở miền Dương Tử Giang, giết được tướng nó là Xuy Vưu; ông ta thật là một
ông vua lớn của nước Tàu. Nhưng vậy mà đến khi ông Khổng Tử làm sách, Ngài
không muốn để tên ông Hoàng Đế đầu, vì ông thấy thượng binh thượng võ lắm. Ngài
chỉ chép từ vua Nghiêu vua Thuấn mà thôi. Vì hai ông vua ấy không có lòng gì
muốn làm vua hết, chỉ bị các nước chư hầu bắt buộc, họ bầu cử lên mà thôi, cũng
nối nghiệp ông Hoàng Đế đi đánh Hữu Miêu, nhưng trong một tháng không được thì
rút binh về để lo sửa việc học hành, dạy dỗ dân mà thôi.
Đời đó thì bày
ra những là dạy dân có ngũ luân, làm ra lịch có ngày tháng thì giờ, cho tiện
người làm ruộng, đặt ra cân ra thước, ra lường để cho tiện dân buôn bán, bày ra
có áo xiêm, có lễ phục v.v... còn nhiều nữa tôi không có kể ra đây cho hết
được. Đây các Ngài nghe cho rõ: cái dân tộc Á Đông mà có Nho Giáo ra là từ hai
ông. Nên ông Khổng xưng là "tổ thuật Nghiêu Thuấn". Thầy Mạnh nói
cũng chỉ khuyên Nghiêu Thuấn. Mà bây giờ ở nước ta những ông có học được một
hai chữ Tàu, hễ mở miệng ra là nói đạo Nho cũng vì cái lịch sử lờ mờ đó.
Đây tôi xin nhắc
lại cái đời Nghiêu Thuấn, lúc đó thế nào? Cái đời đó vua Nghiêu vua Thuấn chẳng
qua là một anh thủ lĩnh của đám tù trưởng ở trong dân tộc Trung Hoa hồi đó mà thôi.
Cứ theo cái dấu
tích lịch sử mà suy, thì lúc đó chư hầu nước Tàu có ít cũng là đến mười lăm
ngàn nước; về sau trong hai trăm năm rồi vua Võ hội chư hầu ở Đồ Sơn còn lại
một vạn nước, tính theo số đó, thời đó thì không sai sút mấy. Vậy thì cái nghi
vệ và cái quyền lợi của Thiên Tử hồi đó ra thế nào? Thiên Tử cũng ở trong một
nước nhỏ như các nước chư hầu vậy thôi, chỉ có lập ra triều nghi để cho các chư
hầu triều cống. Cái quyền to nhất là cái quyền được tế trời đất, còn chư hầu
chỉ được tế những núi những sông ở xứ mình mà thôi. Thiên Tử có đi xem xét ở
các nước chư hầu thì chư hầu phải đón rước, Thiên Tử được cử lên làm quan, có
tội thì phạt, có công thì cũng được phong làm chư hầu.
Vậy thì nói lược
qua đó, anh em chị em đủ biết ông Thiên Tử cũng như ông Tổng Lý Hội Vạn Quốc
đời nay. Chỉ có được lễ triều cống, được cầm quyền chinh phạt, là theo cái số
nhiều chư hầu mà phạt nước này mà thưởng nước kia.
Thương hại thay
các ông học chữ Tàu, nghe nói cái tên Nghiêu Thuấn thì các ông tưởng là nhà Ngũ
Phụng Lâu, cỡi xe lục long xa, tưởng là cũng ra vào hò hét như các vua ta bây
giờ. Nhưng mà ai có độc địa dư hay là có đi du lịch đến chốn Bình Dương Bồ Bản,
thì mới biết rằng cái kinh đô của hai Ngài bằng hai cái thành con bây giờ,
nghĩa là không đầy hai ba dặm vuông.
Từ đó vua Võ nối
vua Thuấn, truyền ngôi cho con trị những nước chư hầu lớn mà cứng đầu nhất,
nghĩa là nó muốn giành ngôi Thiên Tử: như là đời ông Võ thì giết ông Phòng
Phong, đời ông Khải thì giết Hữu Hộ, đời ông Thiếu Khang thì giết Hậu Nghệ ở
nước Hữu Cùng. Ấy tôi tạm đặt đó là cái thời kỳ thứ hai của Thiên Tử.
Từ đó về sau đến
400 năm, đến đời ông Kiệt. Ông Kiệt thì tôi không cần nói những cái lỗi của ông
ấy ra, các Ngài cũng đã hiểu rồi. Đến khi đó thì các nước chư hầu nhỏ nhất làm
đầu, mà đánh đuổi ông Kiệt đi, rồi thay vào ngôi Thiên Tử. Cái việc đã mấy
nghìn năm rồi, có thật hay không, không biết, nhưng mà tôi cũng thuật lại cho
mà nghe. Khi ông Thang đã được chư hầu cử lên làm Thiên Tử, thì ông cáo với dân
và các nước chư hầu rằng: "Ông lấy cái sự đuổi vua Kiệt đó làm thẹn, nhưng
vì ông muốn cứu dân nên phải ra làm". Tuy ông nói thế nhưng chư hàu vẫn cứ
tôn ông lên ngôi Thiên Tử. Ấy là cái oai quyền Thiên Tử tấn tới về nước thứ ba.
Từ đó con cháu
ông đến sáu bảy vua giỏi nối nhau làm vua, truyền đến 600 trăm năm. Đến đời ông
Trụ, dân không phục nữa mới mất nước. Hồi ấy dân ông Trụ ba phần thì đã hai
phần phục theo ông Văn Vương rồi, thế mà ông Văn Vương cũng không chịu đuổi
Trụ, đến đời con ông Văn Vương là ông Võ Vương mới giết ông Trụ mà lên làm vua.
Đến hồi đó thì trong sự đánh dẹp, thấy luyện tập cũng đã ghê lắm rồi, thấy quân
lệnh cũng nghiêm trang, binh giáp cũng dữ dội, cũng lấy giết người chảy máu làm
nhiều danh giá, giết được tướng giặc thì cũng chặt đầu bêu lên, cũng đã làm
cách dã man như lối bây giờ vậy. Cho nên ông Khổng Tử khen ông Văn Vương là chí
đức, chê ông Võ Vương là vị tận thiện là thế.
Từ ông Võ đến
đây là hơn một nghìn năm, ông tức là vua đầu nhà Hạ. Khi ông lên làm vua thì
dưới quyền ông còn hơn một vạn nước; đến hồi vua Thang nhà Thương đuổi vua
Kiệt, thì còn mấy nước chư hầu sử không thấy nói. Đến đời ông Võ Vương nhà Chu
đánh ông Trụ thì thấy chư hầu không hẹn mà tới hội được 800 nước. Vậy thì trong
độ một nghìn năm mà tuyệt mất hơn 9000 nước. Đời ông Võ Vương nhà Chu thì oai
quyền lắm, nên có thể nói rằng đến đời này thì cái oai quyền Thiên Tử tấn tới
bước thứ tư.
Bây giờ tôi xin
nói tóm lại: Khổng, Mạnh, và Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ tức là những ông
đã làm ra cái gương để cho các vua đời sau gọi là Nho Giáo đó. Ta phải xem xét
cái thời thế phong tục của các vua đời sau so lại với Nho Giáo thì có giống
chút nào không?
Từ sau Võ Vương
giết vua Trụ, dân đã không phục, duy có đời vua Văn, vua Võ, vua Thành, vua
Khang thì dân phục mà chư hầu cũng phục. Đến đời vua U vua Lệ thì dân nó nổi
lên giết các vua ấy, rồi ngôi Thiên Tử của nhà Chu từ đó mà mất theo. Một đoạn
lịch sử tốt đẹp như Tàu từ Nghiêu Thuấn cho đến Văn, Võ, thật như là cái khí
mùa xuân, như là cái ánh sáng mặt trời êm ái, ai thấy không khen ngợi. Ai thấy mà
không ước ao. Vậy cho nên Đức Khổng, Thầy Mạnh nhân đó mà lập ra cái đạo để
bình trị thiên hạ thì cũng phải lắm.
Lạ thay cho đến
đời Xuân Thu là nữa đời Chu thì năm nước Bá ra, chẳng cần gì đạo đức nhân nghĩa
như trước cả, chỉ lấy cái giả dối thay nhau, còn Thiên Tử chỉ để lấy cái huy
hiệu mà thôi. Từ lúc đó thì còn được 300 nước; hơn một trăm năm nữa rồi chỉ còn
bảy nước; không đầy một trăm năm nửa thì rút cuộc lại thống nhất về nhà Tần.
VỀ CÁI
THỜI NÀY TÔI MỚI CẮT NGHĨA CÁI QUÂN TRỊ CHỦ NGHĨA TỨC LÀ NHÂN TRỊ CHỦ NGHĨA
Ông Tần Thủy
Hoàng khi mới lên làm vua thì ông làm cái gì? Ông đặt ông là ông vua đầu; ông
truyền cho đến muôn nghìn đời về sau; ông sợ dân khôn nên ông đốt sách; ông sợ
học trò chống cãi lại nên ông chôn sống học trò; sợ để gươm giáo trong dân gian
nhiều thì dân nó nổi giặc; nên ông phá ra đúc làm tượng để chơi! Phá mấy cái
thành cao, lấp mấy cái ao sâu, không cho dân dựa đó mà chống lại nhà nước. Lại
tin cái câu sấm "Vong Tần dã Hồ" mà bắt cả dân già trẻ đi đắp Vạn Lý
Trường Thành, khổ não biết bao nhiêu. Cái mối loạn phát ra từ đó.
Ông làm như thế
thì ông tưởng có cái gì mà sợ nữa. Ông làm ra cái cung điện A Phòng, bỏ vài ba
nghìn con gái đẹp vào để chơi. Ông làm ra cái lăng Ly Sơn dài ba bốn dặm, có
đàng cách đạo, trùng thành; còn nhiều cái sang đẹp nữa. Ông lấy chữ
"Trẫm" để cho mình ông Hoàng Đế xưng mà thôi.
Đời xưng hễ xưng
"hoàng" là "hoàng", xưng "đế" là "đế",
khi trước đạo Nho lấy "vương" là quý, ông chỉ phong cho đầy tớ mình
mà thôi.
Sung sướng đặng
bao nhiêu, chưa đầy 13 năm đã bị thằng Triệu Cao nó giết, rồi thiên hạ lại vào
tay nhà Hán, quân chủ lại vào tay nhà chuyên chế khác nữa.
Đó! Xin các ngài
nghe rõ một khúc này nữa. Nay những ông Nho học ở nước ta, các ông yêu mến đạo
Nho mà các ông ghét nhà Tần biết bao nhiêu; vì các ông thấy nhà Tần bội đạo
Nho. Nhưng mà ông vua của các ông có xấu thế nào các ông cũng cứ vì với Nghiêu,
Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ chớ không khi nào các ông ví với vua Tần. Như mà các
anh em thử nghĩ xem, vua mà xưng "Trẫm" là theo đạo Nho hay là theo
Tần? Vua mà xưng là "Hoàng Đế" thì theo đâu! Vua mà có luật giết ba
họ người thì có phải theo họ Tần không? Vậy mà ông vua nói mình theo đạo Nho;
tự ông nói vậy là phải; các quan nịnh theo vua thì họ nói theo cũng phải đi,
bọn đó không kể; còn các ông đồ già cũng rán gân cổ lên mà cãi rằng:
Vua mình theo
đạo Nho!
Triều đình mình
sùng đạo Nho!
Nước nhà mình
theo đạo Nho!
Dân mình theo
đạo Nho!
Vậy thì đạo Nho
ở đâu?
Do nhà Hán đến
nhà Đường, do nhà Đường đến nhà Tống, do nhà Tống đến nhà Nguyên, do nhà Nguyên
đến nhà Minh, do nhà Minh đến nhà Thanh, nghĩa là trong độ 2.200 năm đó, cách
chính trị của Hán cũng không có gì rộng rãi công bình; nhưng Hán cũng còn hơn
Đường, Đường cũng còn hơn Tống,Tống cũng còn hơn Nguyên, Nguyên cũng còn hơn
Minh, Minh cũng còn hơn Thanh. Xét cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này thì chúng
ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật
trong nước không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn xót lại một hai điều
ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào
đạo Nho để đè nén Dân.
CÁCH
CHUYÊN CHẾ Á ĐÔNG KHÉO HƠN ÂU CHÂU THẾ NÀO?
Vua Âu Châu ở xứ
thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng mà ngay thật, cho đến sự độc ác
cũng vậy. LÚC TRƯỚC MUỐN ĐÈ NÉN DÂN THÌ
PHẢI THÔNG ĐỒNG VỚI GIÁO HỘI, bày đặt ra nói ông vua là ông Thần Trời,
thay mặt cho Thần Trời, hay Thần Trời hóa thành ra; nghĩa là ông vua không phải
một loài với dân thì dân phải tôn kính ông vua. Nhưng mà những cái đó là cạn
cùng giả dối, chỉ có phỉnh dân ngu được một lúc mà thôi, cho nên sau rồi ở Âu
Châu cái dân quyền càng mạnh chừng nào thì quân quyền càng xếp lại chừng nấy.
Vua Á Đông thì
họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông Khổng ông Mạnh, hoặc ở
trong sách cổ có những câu nói có nhiều ý nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra
pháp luật để bó buộc cai trị dân; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ
cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra cái ngoài hàng bà con
của dân mà họ lại đứng ra vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói "quân,
sư, phụ", lại thường nói "Vua, Cha, Chồng". Dù ở chốn hương thơm
rách nát không biết ông vua thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy,
chồng thì họ cũng đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì họ cứ kính cứ yêu, chứ
họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta, chớ có
khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ đẻ ta ra, thì, đói, no, sống,
chết, thế nào cũng ở trong tay mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến
hồi tuổi ta lồng lộng lớn lên thì đánh một tiếng là "Tôi trời con
vua". Ông vua muốn cho sống thì được sống, ông vua muốn cho chết thì phải
chết, ta không có thể chối cãi lại được, là nghĩa lý gì?
Dân bên Âu Châu
thượng võ, cho nên dòng quý tộc chư hầu phải có võ công mới lên được, mà đã lên
được thì khó mất lắm. Còn bên Á Đông này, cái cách quí tộc lại chuộng thi văn,
mà trong thi văn đó ai đậu mới được làm quan, ai không đậu thì thôi, bên quan
võ thì chỉ hồi có giặc hay là hồi khai quốc mới có người tài thật, kỳ dư thì võ
chức chỉ là để thưởng cho những người dốt nát. Thí dụ như một người đi lính từ
20 tuổi đến 50 tuổi,thì thế nào cũng lên được chức Lãnh binh, Đề đốc hưởng được
cái mùi phú quý ít năm, nghĩa là mình ăn ở miễn sao cho người ta đừng ghét là
được. Ấy là cái mưu quân chủ rèn tập cái trí dân ở Á Đông là cho khờ khĩnh. Ta
thí dụ nước ta đã mất nước mấy mươi năm rồi, mà đến kỳ thi ai cũng khí khủm lo
cho đậu được một chút mới thôi. Hễ đậu được thì cho là mồ mả ông cha có phúc.
Còn người có thế hay là có tiền thì cũng vác đi lo làm quan, cũng kiếm một cái
hư hàm. Chừng chúng ta đi ra Hà Nội, ra Huế, ta thấy những bọn mang thẻ bài ngà
nó đi đụng đầu với nhau, còn một bọn thì đang vác tiền đi lo, thì ta cho là bọn
điên cuồng ngu dại, ta không biết cái óc chúng nó ra thế nào, nhưng mà ta biết
rằng cái giống đó là giống đã gieo mầm từ các đời vua trước đã mấy nghìn năm
rồi.
Nói tóm lại cách
chuyên chế ở Á Đông này tôn lên mấy lời tà thuyết, như là câu "lọt lòng mẹ
ra đã phải chịu cái nghĩa vua tôi". Nhưng mà ta có biết rằng "quân
thần dĩ nghĩa hiệp" là nghĩa làm sao? Vậy cho nên có người họ chán, họ bỏ
đi ẩn thì bọn chuyên chế nó lại lập ra cái luật "hữu tài bất di quân
dụng" nghĩa là có tài mà không cho vua dùng, nó lập ra cái luật "yêu
quân", nghĩa là nũng vua, để mà phạt bọn người ấy. Nó sợ rằng dân biết chính
trị nhiều thì dân nổi lên cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được
nói đến chính trị. Hết thảy những cách chuyên chế đó, nghĩa là họ bảo dặn rằng:
"Mày muốn làm gì làm, nhưng đừng động đến cái ngôi vua của con cháu
tao".
Có hay đâu giữ
khéo thì dân trong nước không động đến ngôi vua của con cháu họ thật, nhưng mà
ngoại quốc đến lấy thì dễ như chơi, bởi vì dân nó ngu! Nó không biết nước là
cái gì cả. Ta thử xem cái gương nhà Tống trước thì mất với Liêu, rồi sau mất
với Kim, rồi sau mất với Mông Cổ. Còn nhà Minh thì mất với Mãn Châu, Cao Ly thì
mất với Nhật, Việt Nam thì mất với Tây.
Thương hại thay
trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ lo tính
toán để đè nén cái trí dân, để mà giữ chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên Tử
cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước phải yếu, vua quan
lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu
dân ngu quá, yếu quá không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy
là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái
ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.
CÁI QUÂN
CHỦ LỢI HẠI THẾ NÀO?
Vậy bây giờ ta
tóm lại để coi cái lợi hại về quân chủ như thế nào, thì ta thấy bất kể là Á là
Âu, ở xứ nào, dân tộc nào mà lập thành nước để đến bây giờ, đều là nhờ những
anh hùng hào kiệt đời xưa, họ ra cầm đầu cho dân, ngoài thì đối phó với các dân
tộc khác, trong thì sửa sang lại việc hòa bình ở trong nước. Những cái công đức
của các ông đó ta cũng nên khen ngợi, đáng nghi nhớ, chớ không phải không. Còn
cũng có dòng dân, trước còn đứng được, sau lại không có anh hùng hào kiệt đứng
ra chống chỏi, thì lại bị nước khác nuốt mất. Xem vậy thì cái lợi của quân chủ
ở đời thượng cổ quý không gì bằng. Tuy các ông cũng có mưu về lợi riêng, nhưng
chúng ta cũng có thể tha thứ được. Còn cũng có một cái dịp dùng cái quyền quân
chủ rất tốt, như nước Nhật nước Xiêm, khi người Âu Châu mới qua thì dân còn ngơ
ngác không biết gì, thế mà nhờ trên có vua anh hùng, dưới có các quan tài trí,
đem đường chỉ lối cho dân tấn tới lại càng mau. Vậy thì cũng là một sự hay. Còn
từ đó sắp sau, chỗ nào dân không thể nhờ được dịp đó thì cái quân chủ là một đồ
vô dụng.
Ta xem bên Tàu
30 năm trước, vua Quang Tự đã hạ chiếu duy tân, vì có một người thiếp của cha,
mê trai, tham của, không chịu thay đổi chính trị, chẳng những làm cho dòng vua
Mãn Châu mất, mà làm cho Tàu đến nay hãy còn khốn đốn. Vua Cao Ly, bên vợ thì
duy tân, bên cha thì thủ cựu, đánh nhau mãi, giết nhau mãi, rút cuộc lại cha mẹ
thì bị ở tù, vợ thì bị giết, mình thì hai tay bưng nước đưa cho Nhật, rồi bị
cách chức.
Nhắc đến ông vua
nước ta là ông Tự Đức mà đến bây giờ mấy ông quan già và mấy ông đồ già còn ca
tụng là "Thánh Quân", khi người Tây mới qua, quan binh thì cũng có
như ông Nguyễn Tri Phương, như ông Võ Trọng Bình xin đánh, mà nói có muốn đánh
thì phải xuất tiền đi ngoại quốc mua súng ống về mới có thể đánh được. Nhưng mà
ông vua ấy có tính thương tiền tiếc bạc, cứ muốn chôn dưới đất, chẳng muốn đem
mua cái gì cả, ông trả lời với các quan binh rằng: "Các anh muốn đánh thì
đánh, nhưng mà nếu các anh đánh không hơn thì các anh mới để mẹ con trẫm vào
đâu?" Làm ép cho mấy quan võ như Võ Trọng Bình bỏ về, còn ông Nguyễn Tri
Phương để cho Tây bắt, rồi không ăn mà chết. Cũng có người học thức như ông
Nguyễn Trường Tộ, khuyên vua dạo qua bên Tây, xem xét cái văn minh của họ rồi
cho người qua học, các quan văn cũng có nhiều người xin thế, mà ông vua trả lời
rằng: "Nhật nó là dòng Mọi, Xiêm nó là dòng Mọi; Mọi thì nó học với Mọi
được, chớ như ta là con Thần cháu Thánh, lẽ nào ta lại đi học với Mọi hay
sao?"
Thôi! Tôi không
đoán cái hay cái dở của ông vua đó, để các Ngài nghe rồi các Ngài sẽ đoán xét
các ông vua đó là ông vua gì. Mẹ con ông chết thì có chỗ chôn, còn mẹ con hai
mươi triệu bơ vơ đến bây giờ đó thì sao? Bọn mà ông cho là mọi rợ thì bây giờ
nó đã tấn tới hết cả. Hai mươi triệu khi xưa không đến mọi rợ mà bây giờ chẳng
những hóa ra mọi rợ, mà lại hóa ra tôi đòi hèn hạ nữa!
QUÂN TRỊ
TỨC LÀ NHÂN TRỊ (Người trị người)
Đây hãy nói tóm
lại quân trị tức là nhân trị. Quân trị chủ nghĩa, tuy có pháp luật mặc lòng,
nhưng pháp luật cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì không hay biết gì
hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh anh hùng, hiểu được cái sự
quan hệ giữa dân với nước là thế nào, mà trừng trị lũ quan tham lại nhũng, để
cho dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh, mà cái thì giờ của vua
sống được bao nhiêu thì nước còn được thái bình bấy nhiêu.
Còn mấy ông vua
hôn ám thì ông sống với đàn bà con gái, với bọn hoạn quan, còn biết gì đến nước
trao chính quyền vào trong tay mấy đứa nịnh thần, người đã hư thì nước cũng đổ
thôi. Cho nên ông Khổng Tử có nói rằng: "Văn võ chi chính bố tại phương
sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chính tức", nghĩa
là cái chính trị vua Văn vua Võ còn chép ở trong sách, có người chính trị giỏi
thì cái chính trị trong sách đó mới thi hành ra, nếu không có người giỏi thì
cái chính trị ấy mất. Tuân Tử thì nói rằng: "Hữu trị nhân, vô trị pháp"
nghĩa là có người hay làm hay chứ không có cái pháp luật nào hay được. Ông Mạnh
thì kiêm cả hai ông mà nói rằng: "Đồ thiện bất túc dĩ vi chính, đồ pháp
năng dĩ tự hành", nghĩa là có người giỏi mà không có pháp luật thì cũng
không làm chính trị được; có pháp luật mà không có người giỏi thì pháp luật
cũng không tự làm lấy được.
Mấy nghìn năm
nay, mấy ông vua giỏi, tướng giỏi hết sức mà tránh cho khỏi cái chữ quân trị là
nhân trị, nhưng mà không được, vì là lập phép này phép kia cũng tự tay vua, đến
khi đạp đổ đi cũng tự tay vua.
Ấy tôi nói những
ông vua biết lo mà chữa cho khỏi chữ nhân trị là từ đời Tống, đời Đường sắp
lên, những ông vua hiền minh thì thế. Còn từ đó sắp xuống thì chuyên chế quá
lắm. Xem như ông Minh Thái Tổ đặt ra cái luật "hữu tài bất vi quân
dụng". Nghĩa là đặt ra cái luật hễ ai mà không ra cho vua dùng thì có tội.
Ấy là để bắt người ta phải ra cho mình áp chế hết cả, chớ không cho ai ở ẩn
nữa. Về đời Càn Long lại đặt ra luật "yêu quân" nghĩa là có tài mà
buộc vua cầu cạnh mình thì có tội. Những cái luật đó thì còn có ích gì cho dân
tộc, cho nhà nước đâu, chỉ làm sướng cái óc kiêu ngạo, làm cho sướng cái xác
thịt của ông "Hoàng Đế" đó thôi. Vua đời xưa thì còn cầu hạ sĩ, chứ
còn vua đời sau thì cứ nằm ngửa đó, thằng nào có tài mà không cho ra cho tao
dùng thì tao bỏ tù, thì còn gì sang trọng hơn nữa.
Từ nãy đến giờ
tôi nói về cái lịch sử và triết học quân trị là nhân trị. Đây tôi xin kể thêm
vài cái chứng thật cho anh em dễ hiểu. Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng
rãi hay là nghiêm khắc chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua
mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.
Thí dụ như ông
Gia Long lấy cái luật của đời Càn Long nước Tàu để trị dân Việt Nam; trong cái
luật đó nói rằng: "phí công quân bất hầu", nghĩa là không có công
đánh được giặc thì không phong tước hầu. Vậy thì ông Nguyễn Văn Thành phong
tước hầu, và làm đến trung quân, chẳng qua là ông Gia Long có tấm lòng công
bình mà xét cho cái công trạng của ông ấy theo đánh giặc từ nhỏ đến lớn. Sao
tôi dám nói vậy? Bởi vì sau đó con ông Thành có làm một bài thơ chơi, nghĩ cũng
chẳng tội lỗi gì, mà ông Gia Long giết tới ba họ. Như vậy chẳng qua là khi cơn
giận ông lên thì ông giết, chớ có pháp luật gì đâu.
Tôi nhắc qua một
cái tích của ông Tự Đức mà tôi đã nói trên kia. Năm ông Tự Đức thứ 25, dân
Trung phần chết đói, nhà nước đã lo phát chẩn được một ít rồi, các quan lại xin
trích tiền thuế trong các tỉnh, các chủ huyện để trữ lại trong xã thương các
làng, phòng năm các dân có đói chăng, thì ông ta cho phép dân được đem tiền đem
lúa ra nạp quyên mà lấy chức Bá Hộ, Bát phẩm, Cửu phẩm. Nhưng mà ông nói đói
quá có lúa có tiền đâu mà quyên. Ông xuống dụ các quan cho đàn quyên chịu đã,
chừng nào đóng đủ số tiền đó thì sẽ phong sắc cho. Còn tiền đóng thì cứ để lại
cho đàn ấy. Cái dụ xuống nói rõ ràng như thế. Cách một năm thì thấy cái dụ khác
kể hết tiền chưa đóng và đã đóng rồi, bắt phải đem hết ra tỉnh để cấp cho lính
đánh giặc. Tỉnh sức xuống phủ huyện, phủ huyện sức xuống các làng. Dân trả lời
rằng vua cho quyên chịu, chớ không bắt đóng ngay, năm này mất mùa dân không
chịu đóng, mà gì nó cũng không có mà đóng. Quan tỉnh tư Bộ, bộ tâu Vua, Vua
phải phải làm tội hết những quan ấy. Nhưng mà trong luật Việt Nam những cái
luật tiền bạc thuộc về dân qua qua lại với nhà nước thì ít thấy lắm các quan không
biết theo mặt luật gì mà làm án, phải tâu lên vua hỏi phải làm án gì, nhà vua
bắt làm theo luật "thượng thư bất dĩ thiệt" nghĩa là chiếu theo luật
các quan dâng thư cho vua nói về chính trị mà không thật. Quan Bộ cứ đó mà làm
tội. Đến khi tư về các tỉnh, người thì sáu năm, người thì tám năm, người thì
mười hai năm tù. Gia dĩ đang khi đói khát, cha xa con, vợ bỏ chồng, tưởng quyên
cái Bát, Cửu Phẩm để lấy làm vui, hay đâu không được vui mà lại phải ở tù. Thế
nên cả nhà, cả họ ai cũng lấy làm đau lòng xót ruột. May đâu cái án đó đi đến
Quảng Ngãi, gặp một ông Ấn Sát, ông ấy thì giỏi luật lệ mà có lòng thương dân,
lo việc nước. Ông ấy là người Bến Tre về tỉnh Vĩnh Long tên là Nguyễn Thông
hiệu Kỳ Xuyên, sau lục tỉnh mất thì ông chạy ra Phan Thiết. Ông ấy cứ từ câu mà
bẻ hết cái án, rồi ông gởi trả lại cho Bộ, ông nói rằng: "cái vụ này là
chỉ có vua và quan nói dối dân, chứ dân không nói dối ai chút nào cả". Còn
chiếu theo luật "thượng thư bất dĩ thật" thì không đúng vào đâu cả.
Ông Tự Đức biết mình lỗi, nhưng mà mắc cỡ xui cho người khác kiện ông Nguyễn
Thông rồi cách chức ông đi, muốn trị tội nặng. Nhưng dân Quảng Ngãi và dân các
tỉnh hết sức bênh vực cho ông ta, cho nên cũng chẳng làm hại cho ông được, chỉ
đuổi ông ta đi mà thôi. Đây nói lược qua một hai điều cho các Ngài nghe, chứ
tôi kể hết cái sử Tàu và Việt Nam thì mấy ngày cũng không hết.
NÓI QUA
DÂN TRỊ CHỦ NGHĨA
Nay khắp cả thế
giới những nước nào đã theo kịp được một ít văn minh Châu Âu, hay là hiểu được
một ít tư tưởng tự do, thì ai cũng hiểu được cái tiếng dân chủ là thế nào, hay
là dân trị là thế nào.
Bên Âu châu có
mấy nước quân chủ mặc lòng, nhưng nước nào cũng có đảng Dân chủ ở trong thượng,
hạ nghị viện cả. Duy có nước ta thì như trong lục tỉnh này thuộc với Tây đã hơn
sáu mươi năm, cái chữ "République" thì nói luôn trên miệng, nhưng mà
chẳng tìm kiếm nghĩa lý như thế nào, so sánh với dân trị chính thể cũ của nước
ta ra thế nào! Ấy là nói những người có ăn học, ý tôi xem hình như các Ngài
đoán trước rằng có quân chủ là hơn. Còn nhất là dân nhà quê chẳng những là
không biết dân chủ là gì, mà đối với vua thì thờ trên đầu như thờ Thần thờ
Thánh; chẳng những không nghĩ đến sự "phải có hay là không" mà hình
như có ai nghĩ đến việc đó thì phải bị sét đánh, đá dằn, voi chà, ngựa xé. Khi
nào nghe nói bất luận là ông vua nào, nghe qua thì trong lòng đã vui mừng hớn
hở, nghĩa là ông ấy chắc là mình trông cậy được, rất dở là mới đây việc Phan
Xích Long còn xảy ra trong xứ này. Vậy mới biết rằng cái độc quân chủ vào óc
dân ta sâu quá, mà cái trình độ của dân ta cũng thấp quá, chỉ có một người mà
nói: "Mầy phải trung với người này phải kính với người này", thì nó
mới hiểu. Mà nếu cứ nói ra cái tên nước Việt Nam mà rằng: "Ấy là nước ông
cha mầy, mầy phải thương", thì tay nó không rờ được, mắt nó không trông
thấy được thì nó không thể làm thế nào mà thương được. Vậy thì cứ trừ ra một
cái nhà, một cái vườn, vài mẫu đất nội chỗ con mắt nó thấy đó thì nó thương
được mà thôi. Đã mấy năm nay tôi thường thấy nhà báo hay nhà diễn thuyết, hễ mở
miệng ra thì nói nước có hai mươi triệu quốc dân, trong cái giọng nói thì hình
như có cái danh giá, có sự khoe khoang, có sự tin cậy. Nhưng mà tôi nghĩ trong
hai mươi triệu ai cũng biết có nhà mà không biết có nước; như thấy trong cái
nhà nào trong lúc rủi ro có ba, năm người con trai bị chết tuyệt tự, hay nhà
nào ruộng đất mà bị kiện thưa, hay là bị con ham cờ bạc thì xúm lại nói ồn ào
khắp dân gian, cho là việc quan hệ nhất ở trong xứ này. Còn đến việc "mất
nước" thì chẳng ai mơ màng vào đâu. Một dân tộc mà đối với nước lơ láo lạt
lẽo như thế cũng khốn nạn thật! Dân như vậy mà muốn bỏ vua đi mà lập ra dân
quốc, chắc trong các Ngài có ông cũng lấy làm lạ. Nhưng mà tôi nghĩ rằng vì cái
độc quân chủ giết hẳn cái lòng ái quốc của dân Việt Nam ta, bây giờ muốn cho
dân Việt Nam ta biết nước là của chúng nó, thì phải đem cái tụi bù nhìn đó vất
hết cả đi, thì nó mới có thể tìm kiếm cái nước đó là nước của ai? Mà nòi giống
ta thông minh, có lẽ một ngày kia sẽ gặp thấy rằng ở trong cái miếng đất mấy
nghìn năm lưu truyền lại đây, cái quyền lợi của nó hãy còn nhiều. Cái quyền
phép của nó cũng có nhiều, rồi nó sẽ hiểu rằng xưa nay người mà gọi rằng vua
quan đó, chẳng qua là người thay mặt làm việc cho nó, nếu làm không xong thì nó
đuổi đi cũng không có lỗi gì.
Khi nào dân đã
hiểu như thế thì nó mới biết thương nước. Mà nó có biết thương nước thì một
ngày kia mới mong tự do độc lập được, chứ không thế thì cứ đời đời làm tôi mọi
mãi.
SAO GỌI
LÀ DÂN CHỦ?
Câu này ở Châu
Âu thì không cần phải cắt nghĩa cho nhiều, nhưng mà ở trong xứ mình thì tôi cắt
nghĩa mau mau để cho người ta hiểu cái đại lược.
Lịch sử – bất cứ
là dân nước nào số người học thức cũng là phần ít cả, thường thường nhờ cái
đảng thượng lưu, trung lưu dìu dắt nó đi ấy lẽ thường. Nhưng mà duy có dân châu
Âu khác với dân ta có một việc; là từ khi bắt đầu mới khởi ra thì họ cũng sùng
trọng quân chủ. Nhưng không biết thế nào hồi nước Hy Lạp họ lại có cái hộ gọi
là Trưởng giả hội nghị, thì do ông vua nhóm họp lại những bậc quí tộc mà lập
pháp luật ban cho dân. Lại có một cái hội tên là Quốc dân hội nghị, phàm những
luật lệ mà ông vua cùng những người quí tộc đã đặt ra thì phải giao cho hội ấy
xem có bằng lòng thì mới được làm. Sau đến nước La Mã thì có hội nghị "một
trăm người" thì lấy trong quân lính mà sắp đặt ra hội ấy, phàm xứ ấy có
việc gì lôi thôi thì hội ấy bàn. Còn sau đến hồi dòng vua La Mã đã mất, thì có
một cái hội "La Mã nguyên lão viện", lại một hội "La Mã bình dân
viện". Cho nên sau khi La Mã đổi làm đế quốc chuyên chế mà cái phép La Mã
cũng phát đạt luôn luôn. Bây giờ các nước đâu đâu cũng bắt chước La Mã cả.
Trong một lối từ
khi mọi Nhật Nhĩ Man tràn xuống phá La Mã đế quốc, các nước châu Âu được độc
lập hết cả, thì cái chính thể hội nghị ấy đã mất đi đến mấy trăm năm.
Lạ lùng thay
người nước anh còn giữ lại được gọi rằng "Nhân dân hội nghị",
"Hiền giả hội nghị", hai hội ấy đều là vua nhóm những kẻ tài trí
trong dân gian để giao cho cái quyền "lập pháp". Đến nay thành ra cái
Hạ Nghị Viện của Anh bây giờ, mà đến thế kỷ 17-18 lại truyền bá ra cả lục địa
châu Âu. Ấy là nói lược qua cả lịch sử dân quyền châu Âu.
ĐÂY TÔI
XIN NÓI QUA CHÍNH THỂ DÂN CHỦ LÀ THẾ NÀO?
Bây giờ bên châu
Âu trừ nước nào dân còn ngu dại, còn thì theo chính thể dân chủ. Đây tôi nói về
cái chính thể bên Pháp - ở trong nước có một Hạ Nghị Viện quan hệ nhất. Số nghị
viện thì trên dưới sáu trăm, dân đúng hai mươi mốt tuổi trở lên thì ra bầu cử.
Dân hai mươi lăm tuổi trở lên thì được ra ứng cử. Được cử rồi thì gọi là Hạ
Nghị Viện. Số phận của nước Pháp cầm ở trong tay cái hội ấy, hội ấy thì chủ
quyền để lập pháp luật. Thứ nữa có một Nguyên Lão Nghị Viện. Cái viện ấy lại
không phải dân cử. Các hội đồng ở các tỉnh các hội nào mà nhà nước đã nhận có
cái nhân cách, và những người làm việc nhà nước thì lại ra ứng cử. Hội ấy thì
để coi về việc tiền bạc.
Khi nào bắt đầu
đặt Tổng Thống, hay là thiếu mà đặt lại, thì hợp số người trong hai viện ấy lại
làm bỏ thăm. Người ta ứng cử cũng là ở trong hai viện ấy. Ai được nhiều thăm
thì làm Tổng thống. Khi Tổng thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước mặt
hai viện ấy rằng: "Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không
theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân cứ trục
xuất ngay". Trước thì có Mac Mahon, sau thì có Millerand bị cách chức,
cũng vi phạm hiến pháp.
Còn chính phủ
thì cũng bởi trong hai viện ấy mà ra. Nhưng mà giao quyền cho đảng nào chiếm số
nhiều ở trong hai viện ấy thì được tổ chức Quốc vụ viện (tức là chính phủ, tòa
nội các). Theo Quốc vụ viện bây giờ chừng đâu cũng đến vài chục bộ, nhưng không
phải ăn rồi ngồi không, vênh râu lên đó như mấy ông Thượng thư ta đâu. Ông nào
cũng có trách nhiệm ông ấy cả. Nếu cái gì mà làm không bằng lòng dân, thế nào
cũng có người chỉ trích. Bởi vì ở trong hạ nghị viện thế nào cũng có hai đảng,
một đảng tả một đảng hữu; nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm quyền trong
nước thì đảng hữu xem xét chỉ trích; cho nên có muốn làm bậy cũng khó lắm.
Trong nước đã
hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng hiến pháp. Cái quyền chính phủ cũng bởi hiến
pháp qui định cho, lười biếng không được, mà dẫu muốn áp chế cũng không chỗ nào
thò ra được. Vả lại khi có điều gì phạm đến pháp luật, thì người nào cũng như
người nào, từ ông Tổng Thống cho đến một người nhà quê cũng đều chịu theo một
pháp luật như nhau.
Các quan chức về
việc cai trị chỉ có quyền hành chính mà thôi, còn quyền xử đoán thì giao cho
các quan án là những người đã học giỏi luật lệ, có bằng cấp. Các quan ấy thì
chỉ coi về việc xử đoán, có độc quyền độc lập, cứ theo lương tâm công bình,
chiếu theo pháp luật mà xử, xử chính phủ cũng như xử một người dân. Các quan án
ở về một viện riêng gọi là Viện Tư Pháp.
Quyền tư pháp
cũng như quyền hành chính của chính phủ, và quyền lập pháp của nghị viện, đều
đứng riêng ra không họp lại trong tay một người nào. Đây là nói sơ lược mà
thôi, muốn hiểu kỹ cái chính thể dân trị thì phải chuyên môn mới được.
Xem vậy thì biết
dân trị tức là pháp trị (lấy phép mà trị người). Vì quyền lợi và bổn phận của
mọi người trong nước đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có
đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi tự do. Muốn bước tới bao nhiêu cũng
không ai ngăn trở, chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền lợi của người khác thì
không được. Vì đối với pháp luật thì mọi người đều bình đẳng không có ai là
quan, ai là dân cả.
*
* *
So sánh hai
chính phủ quân trị và dân trị, ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân
trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của một triều đình mà trị
một nước, thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê, được ấm no vui vẻ là phải
đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân
trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc
chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người
giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nỗi phải đè đầu khốn nạn làm tôi mọi một
người, một nhà, một họ nào.
Xét lịch sử xưa,
dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình
thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân nào ngu dại cứ ngồi yên
mà nhờ trời mà mong đợi mà trông cậy ở vua, ở quan, giao phó tất cả những quyền
lợi của mình vào trong tay một người, hay là một chính phủ muốn làm sao thì
làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét thì dân ấy phải
khốn khổ mọi đường.
Anh em chị em
đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước,
mới mong có ngày cất đầu lên nổi!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét